Trong giai đoạn hiện nay, khi sự nghiệp đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đang được triển khai mạnh mẽ theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, giảng dạy và nghiên cứu khoa học đặt ra ngày càng cao. Trước bối cảnh đó, việc học tập và vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đặc biệt là ba phong cách làm việc khoa học, dân chủ và nêu gương, mang ý nghĩa thiết thực đối với cán bộ, giảng viên và sinh viên. Đây không chỉ là kim chỉ nam định hướng hành động, mà còn là động lực để xây dựng môi trường giáo dục văn minh, hiện đại, giàu tính nhân văn (Ban Tuyên giáo Trung ương, 2016).

Phong cách làm việc khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ở sự chuẩn bị chu đáo, rõ ràng, có kế hoạch, có tổ chức, có kiểm tra và tổng kết. Người luôn đề cao hiệu quả thực chất, tránh hình thức, coi trọng trách nhiệm và mục tiêu cụ thể trong mỗi công việc (Hồ Chí Minh, 2011, tập 6). Vận dụng vào công tác quản lý, cán bộ cần xây dựng kế hoạch minh bạch, phân công hợp lý, hạn chế chồng chéo, tạo điều kiện để đơn vị hoạt động thông suốt. Với giảng viên, làm việc khoa học thể hiện ở việc chuẩn bị bài giảng kỹ lưỡng, lấy người học làm trung tâm, ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp giảng dạy. Một giờ học được chuẩn bị chu đáo sẽ có sức thuyết phục và truyền cảm hứng khác hẳn so với một giờ học qua loa, hình thức. Trong nghiên cứu khoa học, phong cách làm việc khoa học đòi hỏi sự trung thực, khách quan, không chạy theo thành tích, mà hướng tới giá trị thực tiễn phục vụ cho giảng dạy và đời sống xã hội. Như vậy, khoa học trong công việc không chỉ là kỹ năng mà còn là thái độ nghiêm túc và tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ, giảng viên.

Đi đôi với phong cách làm việc khoa học là phong cách làm việc dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 7, tr. 283), coi dân chủ là nguyên tắc căn bản của tổ chức và sinh hoạt Đảng. Trong quản lý, dân chủ thể hiện ở sự lắng nghe, tham khảo ý kiến tập thể, khuyến khích sự tham gia và phát huy trí tuệ chung trước khi ra quyết định, tránh độc đoán hay áp đặt. Trong giảng dạy, dân chủ chính là việc tạo ra một môi trường học tập cởi mở, nơi sinh viên được khuyến khích đặt câu hỏi, trao đổi và phản biện, qua đó phát huy tính chủ động và sáng tạo của sinh viên. Thực tiễn cho thấy, những lớp học có sự đối thoại hai chiều thường đem lại hiệu quả vượt trội so với phương pháp truyền đạt một chiều. Trong nghiên cứu khoa học, tinh thần dân chủ là sự tôn trọng khác biệt, khuyến khích tranh luận lành mạnh, xem đó là động lực để phát triển tri thức. Chỉ khi thực hành dân chủ thực chất, chúng ta mới có thể khơi dậy tinh thần trách nhiệm và sáng tạo trong tập thể.

Phong cách nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh càng có giá trị to lớn. Người từng nói: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn trăm bài diễn văn tuyên truyền” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 9, tr. 452). Bác nêu gương từ những việc nhỏ nhất trong đời sống hằng ngày: giản dị, liêm khiết, tận tụy và hết lòng vì nhân dân. Đối với cán bộ quản lý, nêu gương là chấp hành nghiêm kỷ luật, đi đầu trong công việc, sẵn sàng nhận trách nhiệm và phục vụ tập thể. Với giảng viên, nêu gương chính là sự chuẩn mực trong tác phong sư phạm, tận tâm với sinh viên, giữ vững đạo đức nghề nghiệp trong sáng (Ban Tuyên giáo Trung ương, 2016). Thực tế cho thấy, sinh viên thường chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ phong cách và nhân cách của thầy cô, nhiều khi còn sâu sắc hơn những điều được dạy trên lớp. Trong nghiên cứu khoa học, nêu gương là sự trung thực trong học thuật, tôn trọng sự thật, không chạy theo thành tích, giữ gìn chuẩn mực nghề nghiệp. Chính phong cách nêu gương ấy trở thành phương pháp giáo dục hiệu quả nhất, bởi nó tạo ra sức thuyết phục tự nhiên và bền vững.

Khi nhìn lại thực tiễn, có thể thấy rằng ba phong cách làm việc của Bác, dù đã và đang được vận dụng, nhưng vẫn còn những hạn chế trong quá trình triển khai. Vẫn có một số nơi làm việc còn tùy tiện, thiếu kế hoạch; tinh thần dân chủ đôi khi dừng ở hình thức, chưa khuyến khích tranh luận và đóng góp ý kiến; việc nêu gương chưa trở thành chuẩn mực thường xuyên, chưa tạo sức lan tỏa mạnh mẽ trong tập thể. Những hạn chế này nếu không được khắc phục kịp thời sẽ ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục và uy tín của nhà trường.

Để phát huy tốt hơn, cần có những giải pháp đồng bộ. Mỗi cán bộ, giảng viên phải rèn luyện thói quen làm việc khoa học, xây dựng kế hoạch cá nhân và tập thể một cách bài bản. Tinh thần dân chủ phải được thực hiện thực chất trong quản lý, giảng dạy và nghiên cứu, từ đó khuyến khích trí tuệ tập thể và phát huy sự sáng tạo. Quan trọng hơn cả là mỗi người cần tự soi, tự sửa, tự rèn luyện và thực hành nêu gương từ những việc nhỏ nhất, biến việc nêu gương thành động lực nội tại và thói quen thường xuyên.

Tóm lại, ba phong cách làm việc khoa học, dân chủ và nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang giá trị chỉ dẫn to lớn, khi được vận dụng sẽ góp phần nâng cao uy tín cá nhân và tập thể, tạo ảnh hưởng tích cực đến sinh viên, đồng thời xây dựng môi trường giáo dục văn minh và lành mạnh. Mỗi cán bộ, giảng viên khi thấm nhuần và thực hành những phong cách này sẽ trở thành một tấm gương sống động, truyền cảm hứng và lan tỏa giá trị cho thế hệ trẻ. Chính điều đó sẽ giúp chi bộ ngày càng đoàn kết và vững mạnh, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học trong giai đoạn hiện nay.

Tổ chức thảo luận:

1. Trong công việc quản lý – giảng dạy, chúng ta đã thể hiện phong cách khoa học, dân chủ, nêu gương như thế nào?

2. Làm thế nào để vừa phát huy dân chủ trong giảng dạy, vừa giữ kỷ luật lớp học?

3. Để sinh viên noi theo, giảng viên nên bắt đầu nêu gương từ việc gì cụ thể nhất?

Tài liệu tham khảo

1. Ban Tuyên giáo Trung ương. (2016). Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.

2. Hồ Chí Minh. (2011). Hồ Chí Minh toàn tập (Tập 5–12). NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.

(* Bài viết phục vụ sinh hoạt chuyên đề quý IV/2025 của Chi bộ 3).