Với nền tảng thể chế đang được hoàn thiện, Việt Nam kỳ vọng hình thành ba trụ cột quan trọng trong kỷ nguyên số.
Thứ nhất, một Nhà nước kiến tạo, thông minh và không khoảng cách – nơi các quyết định quản lý, điều hành dựa trên dữ liệu thời gian thực, được hỗ trợ bởi AI và phân tích dữ liệu. Người dân, doanh nghiệp được phục vụ bằng dịch vụ công toàn trình, không giấy tờ, cá nhân hóa theo nhu cầu, tạo nên nền hành chính thống nhất và thân thiện.
Thứ hai, một nền kinh tế số năng động, cạnh tranh và tự chủ – nơi tài nguyên dữ liệu được khai mở, tạo sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp công nghệ “Make in Vietnam” sẽ tự tin vươn ra toàn cầu, còn doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội tham gia chuỗi giá trị số nhờ chính sách hỗ trợ và hạ tầng mở.
Thứ ba, một xã hội số nhân văn, bao trùm và an toàn – nơi con người là trung tâm của tiến trình chuyển đổi số. Mọi công dân, dù ở nông thôn hay thành thị, đều được tiếp cận kỹ năng số cơ bản, được bảo vệ quyền riêng tư và an toàn dữ liệu. Văn hóa ứng xử văn minh, nhân văn được lan tỏa trong không gian mạng.
Đáng chú ý, dự thảo Luật dành riêng một chương quy định về xã hội số, xác định nguyên tắc “lấy con người làm trung tâm” và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trên môi trường số.
Các dịch vụ số cơ bản như danh tính điện tử, chữ ký số, tài khoản giao dịch điện tử sẽ được phổ cập rộng rãi; đồng thời có chính sách ưu tiên cho trẻ em, người khuyết tật, đồng bào dân tộc thiểu số, bảo vệ quyền trẻ em và thiết lập khung ứng xử văn minh trên không gian mạng.
Đây là nền tảng quan trọng để xây dựng “niềm tin số” – yếu tố then chốt giúp người dân, doanh nghiệp yên tâm tham gia, đóng góp và hưởng lợi từ tiến trình chuyển đổi số.
Trong giai đoạn tới, cùng với việc triển khai các nhiệm vụ theo Nghị quyết 57-NQ/TW, việc Luật Chuyển đổi số được thông qua và thực thi hiệu quả sẽ tạo hành lang pháp lý toàn diện, đảm bảo mọi người dân đều có cơ hội tiếp cận và thụ hưởng thành quả của kỷ nguyên số một cách công bằng, an toàn và bền vững.




